Cây Bún
Cây bún là một loài thuộc chi Crateva, thuộc họ Cáp. Tên gọi khác là họ Bạch hoa hay Màn Màn (capparaceae).
Hoa bún có hai màu trắng và vàng. Mỗi hoa cho ra hơn chục nhụy màu đỏ pha tím.
Đặc điểm cây Bún
Cây Bún là một loài cây gỗ nhỡ, cao 15 - 20 m, thân mập hình trụ tròn, phân cành mạnh, vỏ màu xám nâu; cành thường cong rũ, rất dẻo dai (có lẽ từ đó mà có tên Bún); lá kép 3 lá chét dạng trứng thuôn ngược, đầu có mũi nhọn, màu xanh lục hơi mốc mốc.
Cụm hoa ở đầu cành, mang nhiều hoa to màu trắng hay trắng sữa, đôi khi ngã vàng cam, mỗi hoa mang từ 13 - 18 nhị dài đến cả chục cm, tua nhị đỏ hay tím, khi hoa nở các nhị tua tủa trước những cánh hoa trông tựa con nhện, nên cây Bún có tên tiếng Anh là Spider Tree (cây con nhện).
Khi nở, hoa mọc thành từng chùm phía đầu cành, đung đưa trước gió.
Do tính chất háo ẩm, thường mọc tự nhiên ở những vùng đất ẩm ven sông, rạch, ruộng... nên cũng thường được gọi là Bún nước. Cây Bún thường ra hoa vào khoảng tháng 4 - 6, tùy điều kiện tiểu khí hậu nơi sống mà thời gian ra hoa có thể sớm hơn hoặc muộn hơn.
Trong điều kiện đất đủ ẩm, tầng đất dày, độ màu mỡ cao, hoa ra khi cây còn đầy lá, tạo thành từng mảng trắng trên nền xanh của tán lá trông đẹp mắt. Ngược lại, ở vùng đất khô cằn, bí chặt, nghèo dinh dưỡng, cây Bún ra hoa rộ khi cành đã trút gần hết lá, khiến cho toàn cây mang một vòm trắng xóa hoặc một vòm trắng sữa điểm phớt màu vàng cam.
So với nhiều loài trồng trong thành phố, cây bún không thua về độ che phủ lấy bóng mát, thậm chí có phần hơn nhờ vẻ đẹp rực rỡ vào mùa hoa nở.
Đặc điểm phân bố của cây Bún
Từ lâu, nhiều nơi ở miền Nam Trung Quốc và Vùng Đông Nam Á, người ta đã chọn cây Bún làm cây cảnh quan. Ở nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam, cây thường được trồng ở các đền chùa, thánh thất... nên nó cũng được gọi tên là Temple Plant.
Cây Bún là một loài thuộc chi Crateva, họ Cáp, còn gọi là họ Bạch hoa hay họ Màn màn - Capparaceae. Cũng chính vì phát hiện cây Bún thường gắn liền với các đền đài, chùa, miếu, thánh thất... như vừa nói nên khi đặt tên khoa học cho nó, Forster - nhà thực vật học người Đức đã dùng tính từ Latin "religiosa" (thuộc về tôn giáo, tín ngưỡng) làm tính ngữ cho tên loài. Từ đó tên loài của nó là Crateva religiosa.
Cây Bún có nguồn gốc ở Nhật Bản, Australia, phân bố rộng rãi ở các nước châu Á như Trung Quốc (có nhiều ở Quảng Đông, Hải Nam, gọi là cây Ngư mộc), Đài Loan; ở nhiều nước Đông Nam Á như Bhutan, Campuchia, Ấn Độ, Myanmar, Nepal, Philippines, Sri Lanka, Thái Lan, Việt Nam; và một ít ở các đảo Nam Thái Bình Dương.
Công dụng của cây Bún
Cây Bún là một loài cây ưa sáng, mọc nhanh, thích ẩm và chịu được ngập nước từng thời kỳ trong năm (cây bán ngập), cho gỗ nhẹ, xốp, dùng xẻ ván, làm đồ gia dụng. Có thể chọn đưa vào danh mục cây trồng rừng kinh tế ngắn hạn cho những vùng đất thấp, nhất là vùng lòng hồ thủy điện. Quả bún ăn được, ở Trung Quốc dùng quả khô để chữa bệnh.
Ở Ấn Độ, quả cây bún được dùng làm thuốc lợi tiểu, làm dịu và chống viêm nhiễm...; vỏ dùng trong điều trị rối loạn chức năng hệ tiết niệu, nhiễm trùng đường tiểu, đau và nóng rát trong chứng tiểu rắt, sỏi thận và bàng quang... Một số tài liệu cây thuốc ở Việt Nam có công bố vài loài Bún tương cận, có tên khoa học là Crateva nurvala và Crateva unilocularis với những tác dụng tương tự loài trên.
Một số hình ảnh tham khảo về cây Bún:
(BlogCayCanh.vn)
Xem thêm
Bình luận trên facebook