Hồng xiêm
Hồng xiêm, danh pháp khoa học hai phần là Manilkara zapota, hay còn gọi là lồng mứt, xa pô chê hoặc sabôchê (từ tiếng Pháp sapotier), có vùng gọi là cây "lai cấm", thuộc họ Hồng xiêm ( Sapotaceae ), là một loài cây thân gỗ, sống lâu năm và thường xanh có nguồn gốc ở khu vực nhiệt đới của Tân thế giới ( Tân Thế Giới, tên gọi được sử dụng để chỉ châu Mỹ, bao gồm Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Trung Mỹ và Caribe cũng như các đảo xung quanh một cách tổng thể, được sử dụng từ thế kỷ 16 ).
Hồng xiêm có thể cao tới 30–40 m. Hồng xiêm là loại cây có khả năng chống gió tốt và vỏ cây rất nhiều nhựa màu trắng, giống như gôm. Lá của chúng có màu xanh lục và bóng mặt. Lá mọc cách tập trung đầu cành, hình elip hay ôvan, dài 7–15 cm, với mép trơn. Hoa màu trắng, không dễ thấy, có hình dáng tương tự như quả chuông và có 6 tràng hoa hình thùy.
Quả hồng xiêm
Quả là loại quả mọng, hình cầu hoặc hình quả trứng hoặc hình thon dài, đường kính 4–8 cm và chứa từ 2–10 hạt. Vỏ có màu nâu-vàng nhạt. Bên trong là lớp cùi thịt có màu nâu ánh đỏ với kết cấu hạt mịn hơi giống với ruột quả lê. Hạt của nó có màu đen.
Quả của nó chỉ nên ăn khi đã chín vì khi còn xanh nó chứa nhiều nhựa dính như latex. Để biết chắc chắn là nó đã chín người ta hay nắn vỏ xem còn cứng hay đã mềm vì màu vỏ gần như không thay đổi từ lúc mới tạo quả đến khi chín. Hương vị của nó tương tự như mùi đường đen.
Quả hồng xiêm
Cây hồng xiêm ra quả hai lần trong năm, tuy nhiên hoa có thể ra cả năm, ngoại trừ những vùng có nhiệt độ về mùa đông xuống thấp dưới 15–17 °C. Nó được đưa từ Mexico vào Philipin trong thời gian người Tây Ban Nha chiếm đóng quốc gia này. Tại Việt Nam, nó là loài cây đưa vào từ Thái Lan, mà Thái Lan được biết đến với cái tên là nước Xiêm, ngoài ra do hình dáng giống như quả hồng (chi Diospyros) nên mới có tên gọi hồng xiêm.
Trước đây, hồng xiêm còn có tên khoa học là Achras sapota, nhưng hiện nay tên gọi này là sai. Tại Ấn Độ, nó được gọi là Chikoo hay Sapota, tại Philipin là tsiko, tại Indonesia là sawu, tại Malaysia là chikoo, tại Sri Lanka là sapodilla hay rata-mi, tại Thái Lan và Campuchia là lamoot, tại Venezuela là níspero và tại Tây Ấn là naseberry còn trong tiếng Anh là sapodilla.
Sử dụng
Hồng xiêm được trồng để lấy quả ăn.
Nhựa mủ, một dạng latex lấy từ vỏ cây cũng được dùng để làm chất cơ sở cho các loại kẹo cao su.
Khi chín, quả của nó ngọt và có mùi thơm dễ chịu.
Quả hồng xiêm được bổ ra
Trong y học : ( Bài thuốc từ hồng xiêm xanh )
Hồng xiêm không chỉ là loại trái cây ngon, bổ dưỡng mà nó còn là phương thuốc hiệu quả chữa tiêu chảy, kiết lỵ. Cách sử dụng như sau: Bạn cắt quả hồng xiêm xanh thành nhiều lát mỏng, phơi khô, sao vàng để dùng dần. Mỗi lần sử dụng lấy khoảng 10 lát sắc với nước uống ngày 2 lần sẽ giúp mau khỏi bệnh tiêu chảy cấp hoặc kiết lỵ. Tuy nhiên, lưu ý là với trẻ em, bạn nên sắc nước loãng và cho trẻ uống đến khi khỏi bệnh.
Một giống hồng xiêm nổi tiếng ở miền bắc Việt Nam là hồng xiêm Xuân Đỉnh, có nguồn gốc từ xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội.
Quả hồng xiêm
Quả là loại quả mọng, hình cầu hoặc hình quả trứng hoặc hình thon dài, đường kính 4–8 cm và chứa từ 2–10 hạt. Vỏ có màu nâu-vàng nhạt. Bên trong là lớp cùi thịt có màu nâu ánh đỏ với kết cấu hạt mịn hơi giống với ruột quả lê. Hạt của nó có màu đen.
Quả của nó chỉ nên ăn khi đã chín vì khi còn xanh nó chứa nhiều nhựa dính như latex. Để biết chắc chắn là nó đã chín người ta hay nắn vỏ xem còn cứng hay đã mềm vì màu vỏ gần như không thay đổi từ lúc mới tạo quả đến khi chín. Hương vị của nó tương tự như mùi đường đen.
Quả hồng xiêm
Cây hồng xiêm ra quả hai lần trong năm, tuy nhiên hoa có thể ra cả năm, ngoại trừ những vùng có nhiệt độ về mùa đông xuống thấp dưới 15–17 °C. Nó được đưa từ Mexico vào Philipin trong thời gian người Tây Ban Nha chiếm đóng quốc gia này. Tại Việt Nam, nó là loài cây đưa vào từ Thái Lan, mà Thái Lan được biết đến với cái tên là nước Xiêm, ngoài ra do hình dáng giống như quả hồng (chi Diospyros) nên mới có tên gọi hồng xiêm.
Trước đây, hồng xiêm còn có tên khoa học là Achras sapota, nhưng hiện nay tên gọi này là sai. Tại Ấn Độ, nó được gọi là Chikoo hay Sapota, tại Philipin là tsiko, tại Indonesia là sawu, tại Malaysia là chikoo, tại Sri Lanka là sapodilla hay rata-mi, tại Thái Lan và Campuchia là lamoot, tại Venezuela là níspero và tại Tây Ấn là naseberry còn trong tiếng Anh là sapodilla.
Sử dụng
Hồng xiêm được trồng để lấy quả ăn.
Nhựa mủ, một dạng latex lấy từ vỏ cây cũng được dùng để làm chất cơ sở cho các loại kẹo cao su.
Khi chín, quả của nó ngọt và có mùi thơm dễ chịu.
Quả hồng xiêm được bổ ra
Trong y học : ( Bài thuốc từ hồng xiêm xanh )
Hồng xiêm không chỉ là loại trái cây ngon, bổ dưỡng mà nó còn là phương thuốc hiệu quả chữa tiêu chảy, kiết lỵ. Cách sử dụng như sau: Bạn cắt quả hồng xiêm xanh thành nhiều lát mỏng, phơi khô, sao vàng để dùng dần. Mỗi lần sử dụng lấy khoảng 10 lát sắc với nước uống ngày 2 lần sẽ giúp mau khỏi bệnh tiêu chảy cấp hoặc kiết lỵ. Tuy nhiên, lưu ý là với trẻ em, bạn nên sắc nước loãng và cho trẻ uống đến khi khỏi bệnh.
Một giống hồng xiêm nổi tiếng ở miền bắc Việt Nam là hồng xiêm Xuân Đỉnh, có nguồn gốc từ xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, Hà Nội.
Xem thêm
Bình luận trên facebook