Bạch đàn
Nhóm cây : | Cây ngoại thất |
---|---|
Có thể bạn sẽ thích : | |
Xem: Hỏi đáp, đố vui, truyện cười - ngụ ngôn |
Bạch đàn còn được gọi là Khuynh diệp, tên khoa học là Eucalyptus, trong họ Myrtus, Myrtaceae. Có nhiều loài Bạch đàn. Phần lớn trồng lấy gỗ, một số loài trồng để khai thác tinh dầu.
Bạch đàn, Khuynh diệp là chi thực vật có hoa Eucalyptus trong họ Myrtus, Myrtaceae. Các thành viên của chi này có xuất xứ từ Úc. Có hơn 700 loài bạch đàn, hầu hết có bản địa tại Australia, và một số nhỏ được tìm thấy ở New Guinea và Indonesia và một ở vùng viễn bắc Philippines và Đài Loan. Các loài bạch đàn đã được trồng ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới gồm châu Mỹ, châu Âu, châu Phi, vùng Địa Trung Hải, Trung Đông, Trung Quốc, bán đảo Ấn Độ...
Cây Bạch đàn (Eucalyptus camaldulensis Dehn.) là cây gỗ to, vỏ mềm, bần bong thành mảng để lộ vỏ thân màu sáng, cành non có 4 cạnh, lá non mọc đối, không cuống, phiến lá hình trứng, màu lục như phủ sáp. Lá già mọc so le phiến lá hình liềm hẹp và dài hơn lá non. Phiến lá có túi tiết tinh dầu. Hoa mọc ở nách lá. Quả hình chén.
Lá bạch đàn
Lá hình mũi dáo hay hình lưỡi liềm, cuống ngắn và hơi vặn, phiến lá dài và hẹp (ở loài E. exserta) giòn và rộng hơn (ở loài E. camaldulensis), rộng 1 - 5 cm, dài 8 - 18 cm. Hai mặt lá đều có màu xanh ve ít vàng nhạt, lác đác có nhiều chấm nhỏ màu vàng. Khi soi lá trước ánh sáng thấy rất nhiều túi tiết tinh dầu nhỏ li ti. Gân cấp hai tỏa ra từ gân giữa, gặp nhau ở mép lá. Khi vò lá có mùi thơm mạnh đặc biệt, mùi dịu hơn ở loài E. camaldulensis. Vị thơm nóng, hơi đắng chát, sau có cảm giác mát và dễ chịu.
Bạch đàn trắng :
Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis) là loài cây thuộc chi Bạch đàn Eucalyptus. Đây là một trong số khoảng 800 loài thuộc chi này. Bạch đàn trắng là loài bản địa của Úc, hiện được trồng ở nhiều nơi trên khắp thế giới.
Cây bạch đàn trắng 700 năm tuổi ở Wonga Wetlands, NSW, Úc
Thân cây bạch đàn trắng cao đến 45 mét; thân phẳng với những dải màu từ trắng, xám đến nâu đỏ.
Cây mọc thẳng trong điều kiện thích hợp, nhưng cũng có thể phân nhánh nếu khí hậu khô hơn.
Phân loại :
Eucalyptus camaldulensis gồm hai thứ là E. camaldulensis var. camaldulensis, E. camldulensis var. obtusa và một phân loài là Eucalyptus simulata, phân bố ở bắc Queensland, là cây lai giữa var. obtusa với Eucalyptus tereticornis.
Tại Việt Nam, cây bạch đàn trắng được di thực đến và hiện có nhiều giống cây trồng khác nhau: bạch đàn trắng Nghĩa Bình, bạch đàn trắng Bắc Trung Bộ, bạch đàn trắng Nam Trung Bộ...
Cây bạch đàn
Bạch đàn cầu vồng
Một loại bạch đàn ở một số nước thuộc bắc bán cầu có thân cây mang đủ màu sắc rực rỡ, trông giống như ai đó phết sơn lên, nhưng thực chất chúng là tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa.
Gốc cây Bạch đàn cầu vồng
Bạch đàn cầu vồng có chiều cao ấn tượng, 70m. Lõi của nó thường được dùng để làm bột giấy. Những ai từng tận mắt ngắm loài cây này đều không thể quên vì màu sắc sống động của thân cây và không khỏi thắc mắc vì sao thân cây lại trông như được sơn màu.
Bạch đàn cầu vồng
Theo Oddity, bí ẩn của bạch đàn cầu vồng lại hết sức đơn giản. Loài cây này bong lớp vỏ già hàng năm nhưng giữa các mảng lại không diễn ra cùng thời điểm. Khi lớp vỏ già rụng xuống, lớp vỏ màu xanh lục lộ ra và dần dần nó sẽ chuyển sang màu xanh non, cam, tía và nâu hạt dẻ. Sự thay đổi này đã tạo nên màu sắc cầu vồng rất đẹp trên thân cây.
Bạch đàn cầu vồng
Bạch đàn cầu vồng
Cây bạch đàn cầu vồng được tìm thấy ở New Guinea, đảo New Britain thuộc Papua New Guinea và Philippines.
Bạch đàn trong y học
I. Bộ phận dùng : Lá, ngọn mang lá.
II. Thành phần hoá học :
Về phương diện khai thác tinh dầu người ta thường quan tâm đến 3 nhóm chính:
1. Nhóm giàu cineol (có hàm lượng cineol trong tinh dầu > 55%) cho tinh dầu được gọi là Oleum Eucalypti
Ðại diện cho nhóm này là Eucalyptus globulus Lab. với những ưu điểm nổi bật: Hàm lượng tinh dầu và hàm lượng cineol khá cao, có thể đến 80 - 85%.
Lá có tinh dầu: 1,3 - 2,25% (E.camaldulensis) và 1,40 - 2,60% (E.exserta). Hàm lượng tinh dầu DÐVN III (2002) qui định không dưới 1,2%.
Thành phần tinh dầu: Thành phần chính là cineol. Loài E. camalduleusis có thể đạt 60 - 70%. Loài E.exserta thấp hơn 30-50%. DÐVN II (1994) qui đinh hàm lượng cineol không dưới 60%. Cũng như tinh dầu tràm, tinh dầu bạch đàn trước khi sử dụng cần được tinh chế và làm giàu cineol.
2. Nhóm giàu citronelal:cho tinh dầu Oleum Eucalipti Citriodorae
Ðại diện là E. citriodora Hook.f. với hàm lượng citronelal trên 70%
Lá có chứa một hàm lượng lớn tinh dầu (3,3 - 4,8%). Thành phần chính của tinh dầu là citronelal (trên 70%) ngoài ra còn có citronelol (5,6%).
3. Nhóm giàu piperiton:
Ðại diện là E. piperita Sm. với hàm lượng piperiton 42-48%.
III. Công dụng :
Lá: Có thể dùng lá bạch đàn trắng hoặc bạch đàn liễu để thay thế lá bạch đàn xanh (E. globulus) là loại đã được sử dụng rất lâu đời ở các nước châu Âu.
Dạng dùng: Thuốc hãm, thuốc xông, hoặc pha chế thành các dạng bào chế như xiro cồn lá bạch đàn, dùng để chữa ho, sát khuẩn đường hô hấp, chữa các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, ho, hen v.v...
Tinh dầu được sử dụng như tinh dầu tràm. Tuy nhiên, đến nay Bạch đàn ở Việt Nam chưa được khai thác ở qui mô công nghiệp như tràm. Còn ở phạm vi nghiên cứu thăm dò và đề xuất.
Tinh dầu bạch đàn chanh được Khoa tai - mũi - họng - bệnh viên Bạch Mai sử dụng nhiều trong những năm kháng chiến chống Mỹ để chữa ho, viêm họng, sát khuẩn đường hô hấp.
Tinh dầu còn được dùng trong kỹ nghệ hương liệu để sản xuất nước hoa và các loại chất thơm khác có mùi thơm tự nhiên của hoa, có thể thay thế tinh dầu sả Java (Cymbopogon winterianus).
Ghi chú :
Bạch đàn còn được gọi là Khuynh diệp. Có nhiều loài Bạch đàn. Phần lớn trồng lấy gỗ, một số loài trồng để khai thác tinh dầu. Nước ta đã di thực được một số loài Bạch đàn lấy tinh dầu có giá trị như Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis Dehnhardt), Bạch đàn liễu (Eucalyptus exserta F.V.Muell), Bạch đàn chanh (Eucalyptus citriodora Hook.f.).
Theo Dược điển Trung Quốc (1997) tinh dầu Bạch đàn (Eucalyptus oil) được khai thác từ các cây Eucalyptus globulus Labill., họ Sim (Myrtaceae), cây Long não - Cinnamomum camphora (L.) Nees & Eberm., họ Long não (Lauraceae) và một số cây khác cùng chi của hai họ thực vật trên.
Không nhầm Bạch đàn với cây Ðàn hương (Santalum album L.), họ Ðàn hương (Santalaceae) cho gỗ làm thuốc.
Cây Bạch đàn (Eucalyptus camaldulensis Dehn.) là cây gỗ to, vỏ mềm, bần bong thành mảng để lộ vỏ thân màu sáng, cành non có 4 cạnh, lá non mọc đối, không cuống, phiến lá hình trứng, màu lục như phủ sáp. Lá già mọc so le phiến lá hình liềm hẹp và dài hơn lá non. Phiến lá có túi tiết tinh dầu. Hoa mọc ở nách lá. Quả hình chén.
Lá bạch đàn
Lá hình mũi dáo hay hình lưỡi liềm, cuống ngắn và hơi vặn, phiến lá dài và hẹp (ở loài E. exserta) giòn và rộng hơn (ở loài E. camaldulensis), rộng 1 - 5 cm, dài 8 - 18 cm. Hai mặt lá đều có màu xanh ve ít vàng nhạt, lác đác có nhiều chấm nhỏ màu vàng. Khi soi lá trước ánh sáng thấy rất nhiều túi tiết tinh dầu nhỏ li ti. Gân cấp hai tỏa ra từ gân giữa, gặp nhau ở mép lá. Khi vò lá có mùi thơm mạnh đặc biệt, mùi dịu hơn ở loài E. camaldulensis. Vị thơm nóng, hơi đắng chát, sau có cảm giác mát và dễ chịu.
Bạch đàn trắng :
Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis) là loài cây thuộc chi Bạch đàn Eucalyptus. Đây là một trong số khoảng 800 loài thuộc chi này. Bạch đàn trắng là loài bản địa của Úc, hiện được trồng ở nhiều nơi trên khắp thế giới.
Cây bạch đàn trắng 700 năm tuổi ở Wonga Wetlands, NSW, Úc
Thân cây bạch đàn trắng cao đến 45 mét; thân phẳng với những dải màu từ trắng, xám đến nâu đỏ.
Cây mọc thẳng trong điều kiện thích hợp, nhưng cũng có thể phân nhánh nếu khí hậu khô hơn.
Phân loại :
Eucalyptus camaldulensis gồm hai thứ là E. camaldulensis var. camaldulensis, E. camldulensis var. obtusa và một phân loài là Eucalyptus simulata, phân bố ở bắc Queensland, là cây lai giữa var. obtusa với Eucalyptus tereticornis.
Tại Việt Nam, cây bạch đàn trắng được di thực đến và hiện có nhiều giống cây trồng khác nhau: bạch đàn trắng Nghĩa Bình, bạch đàn trắng Bắc Trung Bộ, bạch đàn trắng Nam Trung Bộ...
Cây bạch đàn
Bạch đàn cầu vồng
Một loại bạch đàn ở một số nước thuộc bắc bán cầu có thân cây mang đủ màu sắc rực rỡ, trông giống như ai đó phết sơn lên, nhưng thực chất chúng là tác phẩm nghệ thuật của tạo hóa.
Gốc cây Bạch đàn cầu vồng
Bạch đàn cầu vồng có chiều cao ấn tượng, 70m. Lõi của nó thường được dùng để làm bột giấy. Những ai từng tận mắt ngắm loài cây này đều không thể quên vì màu sắc sống động của thân cây và không khỏi thắc mắc vì sao thân cây lại trông như được sơn màu.
Bạch đàn cầu vồng
Theo Oddity, bí ẩn của bạch đàn cầu vồng lại hết sức đơn giản. Loài cây này bong lớp vỏ già hàng năm nhưng giữa các mảng lại không diễn ra cùng thời điểm. Khi lớp vỏ già rụng xuống, lớp vỏ màu xanh lục lộ ra và dần dần nó sẽ chuyển sang màu xanh non, cam, tía và nâu hạt dẻ. Sự thay đổi này đã tạo nên màu sắc cầu vồng rất đẹp trên thân cây.
Bạch đàn cầu vồng
Bạch đàn cầu vồng
Cây bạch đàn cầu vồng được tìm thấy ở New Guinea, đảo New Britain thuộc Papua New Guinea và Philippines.
Bạch đàn trong y học
I. Bộ phận dùng : Lá, ngọn mang lá.
II. Thành phần hoá học :
Về phương diện khai thác tinh dầu người ta thường quan tâm đến 3 nhóm chính:
1. Nhóm giàu cineol (có hàm lượng cineol trong tinh dầu > 55%) cho tinh dầu được gọi là Oleum Eucalypti
Ðại diện cho nhóm này là Eucalyptus globulus Lab. với những ưu điểm nổi bật: Hàm lượng tinh dầu và hàm lượng cineol khá cao, có thể đến 80 - 85%.
Lá có tinh dầu: 1,3 - 2,25% (E.camaldulensis) và 1,40 - 2,60% (E.exserta). Hàm lượng tinh dầu DÐVN III (2002) qui định không dưới 1,2%.
Thành phần tinh dầu: Thành phần chính là cineol. Loài E. camalduleusis có thể đạt 60 - 70%. Loài E.exserta thấp hơn 30-50%. DÐVN II (1994) qui đinh hàm lượng cineol không dưới 60%. Cũng như tinh dầu tràm, tinh dầu bạch đàn trước khi sử dụng cần được tinh chế và làm giàu cineol.
2. Nhóm giàu citronelal:cho tinh dầu Oleum Eucalipti Citriodorae
Ðại diện là E. citriodora Hook.f. với hàm lượng citronelal trên 70%
Lá có chứa một hàm lượng lớn tinh dầu (3,3 - 4,8%). Thành phần chính của tinh dầu là citronelal (trên 70%) ngoài ra còn có citronelol (5,6%).
3. Nhóm giàu piperiton:
Ðại diện là E. piperita Sm. với hàm lượng piperiton 42-48%.
III. Công dụng :
Lá: Có thể dùng lá bạch đàn trắng hoặc bạch đàn liễu để thay thế lá bạch đàn xanh (E. globulus) là loại đã được sử dụng rất lâu đời ở các nước châu Âu.
Dạng dùng: Thuốc hãm, thuốc xông, hoặc pha chế thành các dạng bào chế như xiro cồn lá bạch đàn, dùng để chữa ho, sát khuẩn đường hô hấp, chữa các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp, ho, hen v.v...
Tinh dầu được sử dụng như tinh dầu tràm. Tuy nhiên, đến nay Bạch đàn ở Việt Nam chưa được khai thác ở qui mô công nghiệp như tràm. Còn ở phạm vi nghiên cứu thăm dò và đề xuất.
Tinh dầu bạch đàn chanh được Khoa tai - mũi - họng - bệnh viên Bạch Mai sử dụng nhiều trong những năm kháng chiến chống Mỹ để chữa ho, viêm họng, sát khuẩn đường hô hấp.
Tinh dầu còn được dùng trong kỹ nghệ hương liệu để sản xuất nước hoa và các loại chất thơm khác có mùi thơm tự nhiên của hoa, có thể thay thế tinh dầu sả Java (Cymbopogon winterianus).
Ghi chú :
Bạch đàn còn được gọi là Khuynh diệp. Có nhiều loài Bạch đàn. Phần lớn trồng lấy gỗ, một số loài trồng để khai thác tinh dầu. Nước ta đã di thực được một số loài Bạch đàn lấy tinh dầu có giá trị như Bạch đàn trắng (Eucalyptus camaldulensis Dehnhardt), Bạch đàn liễu (Eucalyptus exserta F.V.Muell), Bạch đàn chanh (Eucalyptus citriodora Hook.f.).
Theo Dược điển Trung Quốc (1997) tinh dầu Bạch đàn (Eucalyptus oil) được khai thác từ các cây Eucalyptus globulus Labill., họ Sim (Myrtaceae), cây Long não - Cinnamomum camphora (L.) Nees & Eberm., họ Long não (Lauraceae) và một số cây khác cùng chi của hai họ thực vật trên.
Không nhầm Bạch đàn với cây Ðàn hương (Santalum album L.), họ Ðàn hương (Santalaceae) cho gỗ làm thuốc.
Xem thêm
Bình luận trên facebook